Thiết lập thế giới trong “Song Sinh Bạch Hạc Thần Mộc” ( phần 1)

QUỶ THÁNH VER 1.0

Quỷ Xương Cuồng hay còn gọi là Mộc tinh

Là yêu quái trong truyền thuyết của người Việt và được ghi chép trong Lĩnh Nam chích quái. Theo đó, Quỷ Xương Cuồng tồn tại từ thời Kinh Dương Vương dựng nước Xích Quỷ tới khi vua Đinh Tiên Hoàng trị vì mới bị tiêu diệt. Đây là một trong số những yêu quái hùng mạnh bậc nhất còn được lưu truyền trong sử sách và huyền kỳ của nước Nam.
Lĩnh Nam chích quái có chép về chuyện Mộc tinh như sau:
“Đất Phong Châu thời thượng cổ có một cây lớn gọi là cây chiên đàn cao hơn ngàn trượng cành lá xum xuê, không biết che rợp tới mấy ngàn rậm. Có chim hạc bay đến đậu nên đất chỗ đó gọi là đất Bạch Hạc. Cây trải qua hàng mấy ngàn năm khô héo mà biến thành yêu tinh, thường thay đổi hình dạng, rất dũng mãnh, có thể giết người hại vật. Kinh Dương Vương dùng nhạc mà đánh thắng yêu, yêu hơi chịu nhún nhưng vẫn nay đây mai đó, biến hóa khôn lường, thường ăn thịt người. Dân phải lập đền thờ, hàng năm tới ngày 30 tháng chạp, theo lệ phải mang người sống tới nộp, dân mới được yên ổn. Dân thường gọi yêu là thần Xương Cuồng.”
Thần Mộc Chiên Đàn Đất Bạch Hạc (Phong Châu)
                                                                                            Thần Mộc Chiên Đàn Đất Bạch Hạc (Phong Châu)
Kinh Dương Vương những lần đi tuần thú qua vùng Bạch Hạc đều nghe dân tình ca thán về Mộc Tinh ăn thịt người. Kinh Dương Vương bèn cho người của mình sống lẫn với dân địa phương để theo dõi hành tung của Mộc tinh. Chỉ thấy những lần nó đến đều là gió lớn nổi lên, đất trời thơm sực nức, rồi xuất hiện một nam nhân thanh thoát như tiên, hình dung lãng đãng, nói nói cười cười, sau đó nhân lúc người ta như mê như say không phòng bị, hắn nổi cơn cơn gió to cuốn người đi, đa phần là phụ nữ trẻ em. Người ta theo dấu mà đuổi thì cứ đến gần cây chiên đàn là mất tích.
Quỷ Thánh Xương Cuồng
                                                                                                                  Quỷ Thánh Xương Cuồng
Có những khi người của Kinh Dương Vương rình hắn ở gần gốc cây mà không thể tiếp cận được vì đàn hạc trên cây thấy động kêu lớn.
Chẳng làm thế nào được, Kinh Dương Vương bèn thay đổi chiến thuật. Ngài thấy cần phải dụ nó đến mà diệt.
Ngài chỉ dạy cho dân cách làm nhạc cụ bằng đá như đàn đá, khánh đá, lại ban cho một nhạc cụ kỳ lạ bằng đồng, nom như hai cái đĩa tròn sâu úp vào nhau, trên có nhiều họa tiết, khi chơi là đập hai nửa vào nhau để tạo ra âm thanh. Rồi ngài lại dặn họ phải nổi lửa nướng thức ăn và đàn hát nhảy múa tưng bừng.
Dân thắc mắc, thì ngài gọi một số người cầm đầu vào khẽ dặn dò:
“Mộc tinh dùng yêu thuật mê hoặc khiến người mê muội đờ đẫn, thì ta dùng âm nhạc nhảy múa để duy trì tỉnh táo. Nó dùng mùi hương chiên đàn gây ảo giác, thì ta phá bằng mùi thịt nướng, mùi thức ăn. Còn nữa, dẫu sao nó vẫn là tinh cây, là mộc thì sợ hỏa, nên ta dùng lửa để tự vệ. Vả lại, con yêu tinh này ham vui, lại kiêu căng ngạo mạn muốn khoe khoang bản sự, nên ta phải bày cuộc vui để nó tìm đến.”
Y như rằng, nghe tiếng huyên náo, Mộc tinh tìm đến, nhưng thấy lửa nóng, nó không dám vào gần, nhất thời không tìm được cách mê hoặc dân chúng. Chính lúc Mộc tinh đang bối rối, Kinh Dương Vương xuất hiện. Ngài giơ cao hai cánh tay lên trời, một vùng mây mênh mông đen kịt tụ lại. Ngài phất tay xuống, có tiếng sấm nổ vang, rồi trong nháy mắt một tia sét cực lớn giáng xuống Mộc tinh khiến nó lảo đảo và hốt hoảng chạy mất.
Hôm sau, người dân thấy một vệt cháy đen thui dọc theo thân cây chiên đàn.
Kinh Dương Vương truyền ngôi và dặn dò con trai là Sùng Lãm Lạc Long Quân ở lại để bảo hộ dân chúng và đối phó với Mộc tinh.
Thời gian trôi qua, vết sẹo trên cây chiên đàn cũng dần lành lại. Sau trận đòn thừa sống thiếu chết, Mộc tinh không dám ngang nhiên xuất hiện để bắt người nữa, nhất là lúc người dân tụ họp, đốt lửa và đàn hát nhảy múa quanh đống lửa. Nhưng nó vẫn vồ bắt những người đi lẻ vào trong rừng.
Lạc Long Quân thương dân chúng lầm than bèn quyết trừ hại Mộc tinh cho người dân Bạch Hạc.
Đến đây, chúng ta lại tìm hiểu đôi chút về Lạc Long Quân.
Ngài tên húy là Sùng Lãm, là con trai của Kinh Dương Vương Lộc Tục với con gái của Thần Long – là vua của hồ Động Đình. Bởi vậy, trong người Lạc Long Quân mang huyết thống của Long tộc. Ngài vóc người cao lớn, thông tuệ và dũng mãnh vô song, được coi như thủy tổ và vị Thần bảo hộ lớn nhất của người dân nước Nam.
Lạc Long Quân thân chinh đến vùng Bạch Hạc, lập đàn quanh gốc cây chiên đàn để quyết chiến với Mộc tinh. Sau 7 ngày 7 đêm ròng rã đấu phép, ngài dùng viên Long Châu, bảo vật của Long tộc, để phong ấn Mộc tinh vào gốc cây chiên đàn, rồi dùng lửa thần để đốt cây.
Nhưng cây chiên đàn vốn là giống linh căn có từ khi khai thiên lập địa, thân cao hơn ngàn trượng, rễ ăn sâu tới địa phủ, sức mạnh của nó vốn có nguồn gốc rất sâu xa và to lớn, lại vì chuyển hướng tà ác nên có thể coi như một thứ tai ách không thể lập tức trừ bỏ của đất này. Chỉ khi cây cháy sạch thì mới diệt được Mộc tinh, nhưng cây quá lớn, cháy đến vài tháng mới hết. Trong lúc ấy, thừa dịp Lạc Long Quân sơ hở, Mộc tinh phá được phong ấn, vùng chạy được về phía tây nam, tức là đất Diễn Châu – Nghệ An ngày nay.
Lạc Long Quân ngẩng mặt lên trời mà than rằng: “Ta muốn trừ hại cho dân mà không làm cho tiệt nọc nó được. Âu cũng là số trời còn cho nó sống đến ngày sau.”
Rồi ngài tụ họp người dân Phong Châu lại mà bảo rằng: “Nay ta đã vì dân Nam mà trừ Ngư tinh, Hồ tinh, chỉ còn Mộc tinh chưa trừ dứt hẳn. Nhưng ở vùng Bạch Hạc này đã không còn phải sợ nó nữa. Nó sẽ còn gieo rắc tai họa cho dân Nam, nhưng sự tồn tại của nó cũng được an bài. Chỉ đến khi nào nước Nam này không còn nội thuộc phương Bắc ắt sẽ có người diệt được nó”.
Mộc tinh chạy về đất tây nam, ngay lập tức lại trú ngụ trong một cây cổ thụ khác. Dù sức mạnh có giảm đi nhưng sự cuồng ngạo không giảm, bèn xưng là Xương Cuồng. Lúc này Lạc Long Quân đã về biển, không ai trị được nó. Các đời Hùng Vương nối ngôi đã phải truyền cho dân vùng ấy, bắt người thuộc tộc người trong núi mà tế cho nó mỗi năm vào ngày 30 tháng Chạp.

Quỷ Xương Cuồng và cuộc Nam tiến của Triệu Đà

Tần Thủy Hoàng sau khi thống nhất Trung Nguyên thì nhòm ngó xuống vùng đất Lĩnh Nam, theo sách Hoài Nam Tử thì là vì thèm muốn quý vật như ngọc trai, sừng tê, đồi mồi, dược liệu… của vùng đất này. Tần Thủy Hoàng bèn sai Đồ Thư đi bình định vùng Lĩnh Nam. Quân Nam rút vào rừng kháng chiến, Đồ Thư bị giết nhưng vùng Lĩnh Nam cũng thất thủ. Tần Thủy Hoàng sai Nhâm Ngao và Triệu Đà đến cai trị Lĩnh Nam. Nhâm Ngao làm quận úy Nam Hải, dưới Nhâm Ngao là Triệu Đà làm huyện úy Long Xuyên.
Năm 210 trước Công Nguyên (TCN), Tần Thủy Hoàng chết, con là Tần Nhị Thế nối ngôi, khởi nghĩa Trần Thắng, Ngô Quảng nổ ra năm 209 TCN, rồi tiếp theo là chiến tranh Hán-Sở giữa Lưu Bang và Hạng Vũ (từ năm 206 TCN), Trung Nguyên rơi vào cảnh rối ren loạn lạc.
Còn ở đất Lĩnh Nam Nhâm Ngao nhân thấy Quỷ Xương Cuồng lộng hành nên tìm cách trừ diệt. Trước hết là bãi bỏ tục tế người cho Xương Cuồng vào ngày 30 tháng Chạp, tức 30 Tết hàng năm. Xương Cuồng tức tối bèn vật cho Nhâm Ngao ốm nặng. Đại Việt sử ký Toàn Thư, phần ngoại kỷ, kỷ nhà Thục có chép Mông Ngao “phạm thổ thần, bị bệnh phải rút về”.
Còn sách Lĩnh Nam Chích Quái viết rằng: “Kịp tới khi Tần Thủy Hoàng bổ Nhâm Hiêu (còn gọi là Nhâm Ngao) làm huyện lệnh, muốn bỏ tệ ấy đi. Thần Xương Cuồng tức giận vật chết Hiêu, vì thế về sau lại phải phụng thờ cẩn thận”. Vì vậy năm 208 TCN, Quận úy Nam Hải là Nhâm Ngao trước khi chết cho gọi Triệu Đà đang tạm thời làm Huyện lệnh Long Xuyên đến, dặn dò đại ý rằng:
“Vùng đất Nam Hải có núi chắn, có biển kề, rất thuận lợi cho việc dựng nước và phòng thủ chống lại quân đội từ Trung Nguyên (tức khu vực trung ương Trung Quốc) đánh xuống”.
Triệu Đà nhân đó mới được thay thế Nhâm Ngao làm Quận úy, rồi độc lập với Trung Nguyên, lại chinh phục Âu Lạc và các bộ tộc khác của Bách Việt, tự lập mình làm vua nước Nam Việt, xưng hùng xưng bá ngang hàng với nhà Hán ở Trung Nguyên.
Rồi Triệu Đà mất, con cháu nối được bốn đời nhưng sau đó nội bộ rối loạn, nhân đó bị nhà Hán chiếm, mở đầu thời kỳ Bắc thuộc của nước Nam.
Cũng có nhiều người khác cho rằng, thời kỳ Bắc thuộc đã bắt đầu từ khi Triệu Đà người phương Bắc diệt nước Âu Lạc của An Dương Vương – một hậu duệ họ xa của họ Hùng, cũng là hậu duệ của đức Lạc Long Quân.
Và trong lúc đó, Xương Cuồng vẫn lộng hành ở vùng đất tây nam của người Lạc Việt.

Cái chết của Xương Cuồng

Năm 938 Ngô Quyền đánh bại quân Nam Hán, lập ra nhà Ngô, mở ra thời kỳ độc lập của nước Nam. Nhưng sau khi Ngô Quyền chết, đất nước lại hỗn loạn trong mấy chục năm cho đến khi Đinh Bộ Lĩnh dẹp loạn 12 sứ quân lên ngôi vua, xưng đế hiệu là Đinh Tiên Hoàng. Lúc ấy, nước Nam mới chính thức kết thúc nghìn năm Bắc thuộc, tức là “nước Nam này không còn nội thuộc phương Bắc” như lời đức Lạc Long Quân đã nói.
Khi đó có thiền sư Không Lộ dùng lại cái mưu của Kinh Dương Vương ngày xưa: dụ Xương Cuồng vốn ham cuộc náo nhiệt mà tới. Xương Cuồng tới xem, ngài đọc mật chú bắt nó đứng yên, rồi lấy kiếm ra chém. Xương Cuồng cùng bộ hạ đều chết hết. Từ đó lệ tế người sống hàng năm mới bỏ, dân lại sống yên lành như xưa.
“Người biết pháp thuật này có Thượng Kỵ, Thượng Can, Thượng Đát, Thượng Toái, Thượng Hiểm Can thường làm người cưỡi ngựa hoặc làm bọn con hát. Hàng năm tới tháng 11 lại dựng lầu cầu vồng cao 20 trượng, dựng một cây đứng ở trong, tết vỏ gai làm dây thừng dài 136 thước, đường kính rộng 3 tấc, lấy mây mà quấn ngoài rồi chôn hai đầu dây xuống đất, giữa gác lên cây. Thượng Kỵ đứng lên trên dây mà chạy nhanh 3, 4 lần, đi đi lại lại mà không ngã. Kỵ đầu đội khăn đen, mình mặc quần đen. Dây của Thượng Can dài 150 thước, có một chỗ mắc chạc ba. Hai người mỗi người cầm 1 cán cờ đi trên dây, gặp nhau ở chỗ chạc ba thì lại tránh, lên xuống mà không ngã. Khi thì Thượng Đát lấy một tấm gỗ lớn rộng 1 thước 3 tấc, dày 7 tấc đặt lên trên cây cao 17 thước, Đát đứng ở trên nhảy 2, 3 lầni, tiến tiến lùi lùi. Khi thì Thượng Toái lấy tre đan thành lồng hình như cái lờ bắt cá, dài 3 thước, tròn 4 thước rồi chui vào đứng thẳng mình mà không ngã. Khi thì Thượng Câu vỗ tay nhảy nhót, miệng la hét kêu gào, chuyển động chân tay, rờ xương vỗ bụng, tiến lên lùi xuống, hoặc làm người cưỡi ngựa phi nhảy, cúi mình xuống nhặt lấy vật ở dưới đất mà không rơi khỏi lưng ngựa. Khi thì Thượng Hiểm Can ngả mình nằm ngửa, lấy thân đỡ một cái gậy dài rồi cho đứa trẻ trèo lên. Khi thì cho bọn ca hát gõ trống khua chiêng, ca múa rầm rĩ. Lại giết súc vật mà tế”.
Quỷ Thánh Xương Cuồng Ver 1.0
                                                                                                                 Quỷ Thánh Xương Cuồng Ver 1.0
Nguồn: St
—————————————
Khổ thân Xương Cuồng, đường đường là Thánh Qủy mạnh nhất nước ta lại chết vì ham vui 
Ẩn sau sự hung ác ấy thì thật sự là một tâm hồn yêu nghệ thuật rất là nhạy cảm. Ngay từ ngày đầu bị nhạc thần của Kinh Dương Vương vật lên bờ xuống ruộng mà cũng không chừa =)))))))))))
Vậy thì ý nghĩa đằng sau cái chết của Xương Cuồng còn ẩn chứa điều gì nữa. Và liệu y có tái sinh trở lại? Sự tái sinh trở lại của Xương Cuồng có liên quan gì đến chặng đường lịch sử thời kỳ sau khi Tây Sơn Hoàng Triều sụp đổ?
Cùng tìm lời giải đáp cho những câu hỏi này trong “Song Sinh Bạch Hạc Thần Mộc” nào.
Quỷ Thánh Ver Tái sinh
                                                                                                              Quỷ Thánh Ver Tái sinh

Để lại bình luận

Đã thêm vào giỏ hàng

0 Scroll
Messenger Messenger
Google Map Google Map
Zalo Zalo
Gọi ngay Gọi ngay